Câu hỏi cụ thể của khán giả:
“Kính thưa ngài,”
Trong các từ điển Anh-Việt thông thường, từ tự kỷ được dịch là hội chứng tự kỷ, trong các từ điển Anh-Trung dịch là chứng tự kỷ.
Làm sao gọi cho đúng, đây là bệnh gì? Xin cảm ơn”
Tiến sĩ He Wenxian trả lời:
Tự kỷ: Tự kỷ, Cô đơn hay Bản ngã?
Về nguồn gốc của bệnh tự kỷ: Năm 1912, nhà tâm lý học người Thụy Sĩ Paul Bleuler đã tạo ra từ mới bệnh tự kỷ (autos=tiếng Hy Lạp, ‘self”; -ismus= cho một tình trạng bệnh lý] ) để mô tả một thứ gọi là “sự hấp thụ bệnh hoạn của bản thân “, có nghĩa là đắm chìm một cách bệnh hoạn trong thế giới, trong không gian của chính mình, đó là một triệu chứng của bệnh tâm thần phân liệt.
Cho đến những năm 1940, Tiến sĩ Leo Kanner (người Áo) của Đại học Johns Hopkins, Hoa Kỳ đã tiến hành nghiên cứu trên những đứa trẻ có triệu chứng tâm lý chính là thu mình vào thế giới riêng tư và cảm thấy không thể giao tiếp, tương tác với người khác. tự kỷ” đã được sử dụng để mô tả những đứa trẻ này (1943). Trong khi đó, bác sĩ người Áo Hans Asperger mô tả người khuyết tật giống bệnh nhân của Kanner ở chỗ họ chia sẻ những đặc điểm chính của sự cô lập xã hội nhưng hoạt động ở mức gần bình thường, bình thường hơn. Ông gọi đó là chứng rối loạn tâm thần tự kỷ. Bản thân Asperger cũng có những triệu chứng của chứng rối loạn mà anh mô tả. Do chiến tranh thế giới thứ hai, hai nhà nghiên cứu không có cơ hội liên lạc với nhau. Thuật ngữ hội chứng asperger lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Anh vào khoảng năm 1970 thông qua bản dịch tiếng Anh nghiên cứu của bác sĩ người Đức Gerhard Bosch về bệnh tự kỷ. Năm 1981, bác sĩ tâm thần người Anh Lorna Wing lại sử dụng cái tên “Hội chứng Asperger”, khiến nó trở nên phổ biến trong giới văn học Anh và thậm chí cả thế giới.
Tuy nhiên, cho đến những năm 1960 (chiến tranh Việt Nam), ngành y vẫn chưa phân biệt được bệnh tự kỷ (một chứng rối loạn phát triển của trẻ nhỏ) và bệnh “điên” (bệnh tâm thần phân liệt), và cho đến những năm 1970, vẫn điều trị cả bệnh A. thông qua các biện pháp tương tự, chẳng hạn như điều trị bằng thuốc (chẳng hạn như lsd), sốc điện (điện), và các biện pháp trừng phạt, đau đớn để thay đổi hành vi (hành vi).
Năm 1988, bộ phim Rain Man (Raymond) do Dustin Hoffman thủ vai chính đã đoạt giải Oscar. Bộ phim đưa chứng tự kỷ lên hàng đầu trên các phương tiện truyền thông và báo chí, mang lại nhận thức và nhận thức cao hơn cho những người bình thường và cộng đồng y tế về chứng rối loạn kỳ lạ, khó điều trị này và cho đến nay vẫn thường bị coi là một kẻ thái nhân cách. Linh hồn hay quái vật (“freaks”), từ khoảng những năm 1980, và trong hơn ba thập kỷ qua, bệnh tự kỷ đã nhận được sự quan tâm đáng kể như một lĩnh vực quan trọng của bệnh tâm thần và tâm lý ở trẻ em. ; Ngôn ngữ trị liệu, Nói và Hiểu, cũng như ảnh hưởng và kiểm soát môi trường học tập của trẻ, phù hợp với liệu pháp hành vi của trẻ, giúp trẻ điều chỉnh nhiều nhất có thể để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống độc lập.
Tự kỷ là một rối loạn bao gồm các triệu chứng chính sau đây, thường xuất hiện trong ba năm đầu đời và tiếp tục trong suốt cuộc đời. Hiện tại, các mức độ tự kỷ khác nhau được phân loại là “rối loạn phổ tự kỷ” hoặc “rối loạn phổ tự kỷ”, từ những bệnh nhân có sắc thái nhẹ của bệnh tự kỷ đến những bệnh nhân trước đây được phân loại là bệnh nhân mắc hội chứng Sperger A, cho đến những bệnh nhân có triệu chứng điển hình hoặc nghiêm trọng hơn. /p>
1.Rào cản lời nói và rào cản biểu cảm của nét mặt, cử chỉ, điệu bộ.
Ví dụ: – Trẻ nói chậm, nói không rõ, hoặc đã quen nói một số từ, câu nhưng không còn khả năng đó nữa. – Không biết cách bắt chuyện, bắt chuyện, nói đi nói lại với người đối thoại, – hoặc nói chỉ để hỏi, xin cái gì đó, nói điều gì đó – Thường nói với nhịp điệu không đều: nói như hát , hoặc không diễn đạt Nói theo cảm xúc, nói như máy (robot-like speech). – Nghe người khác nói và có thể lặp lại đúng nguyên văn, nhưng không hiểu và áp dụng vào tình huống mới; không hiểu câu hỏi đơn giản, hoặc hướng dẫn đơn giản (theo webmd)
2. Rối loạn trong giao tiếp xã hội, cách tương tác với người khác, những khiếm khuyết này ảnh hưởng đến việc học tập.
Ví dụ:- Trẻ không thích được bế, ôm. – Thích chơi một mình và hành động như muốn ở một mình trong thế giới của mình. – Không nhìn thẳng vào mắt mọi người – Nét mặt không có bất kỳ cảm xúc nào. – Dường như không hiểu được cảm xúc của người khác, không biết người khác vui, buồn, giận hay tủi. Theory of Mind hay “Theory of Mind” là khả năng hiểu rằng những người khác cũng có khả năng bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc và mong muốn của họ giống như bạn vậy; kiểu suy nghĩ và cảm xúc của họ có thể khác với chính họ. Người ta cho rằng những bệnh nhân mắc chứng tự kỷ nặng không có “lý thuyết về tâm trí” và do đó họ không thể đồng cảm với người khác. Tuy nhiên, điều này còn rất phụ thuộc và người bệnh vẫn có khả năng chịu đựng về mặt tình cảm, nhưng cũng chỉ có giới hạn ở một mức độ nhất định
3. Hoạt động lặp đi lặp lại và chuyển động rập khuôn
Ví dụ: – Bập bênh, xoay tròn, đôi khi bất lợi như đập đầu xuống sàn, vào tường; – Người bệnh có những thói quen, nghi thức nếu không thực hiện sẽ rất bực bội, khó chịu.
4. Khó thích nghi với hoàn cảnh mới, không chịu thay đổi dù là chi tiết nhỏ nhất.
5. Phản ứng theo những cách khác thường đối với các kích thích chẳng hạn như âm thanh hoặc mùi. Không thích đèn sáng hoặc tiếng ồn lớn và dường như chịu đau tốt (ví dụ: ngã, không khóc khi tiêm) mặc dù tiếng ồn là bình thường đối với những đứa trẻ khác.
6.Kém khả năng tư duy, đặc biệt là khả năng nhìn nhận tổng thể của vấn đề, quá chú trọng đến nghĩa đen của lời nói, thiếu khả năng hiểu nghĩa biểu tượng của câu chuyện, thiếu óc tưởng tượng.
Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy bệnh tự kỷ, bao gồm cả Asperger, có nguyên nhân di truyền và các biểu hiện của nó cũng phụ thuộc, và đôi khi, vào các yếu tố môi trường. Chúng được liên kết với nhau. Ví dụ, mức độ testosterone mà thai nhi tiếp xúc trong tử cung đã được phát hiện là có ảnh hưởng đến sự phát triển bệnh tự kỷ sau này ở trẻ. Điều này có thể liên quan đến các cơ chế “biểu sinh”, là các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến biểu hiện gen. Yếu tố “nút bật” trên sinh vật cho phép sinh vật (gen) hoạt động hoặc dừng lại, giống như công tắc bật tắt bật hoặc tắt đèn.
Về cách chọn từ tiếng Việt để dịch, tôi nghĩ cách dịch từ “autism” có lẽ rất gần với từ quốc tế “autism” hoặc một từ tương tự được sử dụng trong hầu hết các nền văn học phương Tây (Pháp). , tiếng Đức, tiếng Tây Ban Nha…).
Từ “tự kỷ” được ghép từ hai chữ Hán Việt, “tự” có nghĩa là tự, và “ngã” cũng có nghĩa là tự, như “tự ái”, “tự xưng”, tự túc, tự chủ. Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh (hoàn thành năm 1932) giải thích “tự ám thị” là tự đề nghị. Tự thôi miên là tự thôi miên, và “Tự kỷ: Phát triển sự tự biểu hiện của chính bạn,” 1975). Như “Từ điển tiếng Việt” xuất bản ở Hà Nội cũng giải thích theo hướng này, không thấy thuật ngữ y học nào đề cập đến nghĩa tự kỷ.
Từ “self” và “autos” tương đương với từ gốc Hy Lạp “autos”. Không biết người Việt Nam đầu tiên chọn “autism” là ai. Các học giả Việt Nam đã dịch Đào Duy Anh vào những năm 1930 để sử dụng từ tự kỷ để dịch từ tự kỷ theo nghĩa gốc của từ bleuler (“tự hấp thụ bệnh hoạn”) vào đầu thế kỷ 20.
Trung Quốc chỉ nói về bệnh tự kỷ từ năm 1982, theo gương y học Mỹ. Đối với nghĩa hiện đại của từ tự kỷ mà chúng tôi đã mô tả ở trên, theo meghan hussey, hiện nay ở Trung Quốc đại lục, người ta dùng từ “tự kỷ” (gūdúzhèng), “tự kỷ”, điều này không ổn lắm, bởi vì tự kỷ không phải là đứa trẻ đơn độc. , nhưng hầu như luôn được bao quanh bởi mọi người, anh ấy không cảm thấy cô đơn. Vì vậy khi nói đến những đứa trẻ cô đơn, người nghe sẽ cảm thấy khó hiểu, tự hỏi tại sao ai cũng cô đơn, và tại sao nó lại là một căn bệnh hiểm nghèo cần được điều trị.
Tóm lại, tài liệu về tự kỷ đã phát triển vượt bậc trong 30 năm qua, khi văn học Việt Nam không dựa vào văn học Trung Quốc hay Nhật Bản mà được dịch trực tiếp từ tiếng Anh. Hơn 10 năm nay, trong nhiều bài viết về căn bệnh này, tôi vẫn dùng từ “tự kỷ”, và một số độc giả góp ý rằng từ “tự phụ” có lẽ đúng hơn, vì người Trung Quốc gọi bệnh này là zìbìzhèng. còn được gọi là tự mang ở Nhật Bản. Học giả, nhà tâm lý học và mục sư người Thụy Sĩ Nguyễn Văn Thanh cũng sử dụng thuật ngữ “bệnh tự mang”.
Theo từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, “bế quan” có nghĩa là “đóng kín, khép kín” (như sau cánh cửa đóng kín, bế tắc), tạo cho người đọc một cái tên tự xưng, giúp người đọc hiểu được tâm trạng khép kín của đứa trẻ , điều này gây khó khăn cho những người khác. Hãy liên lạc với anh ấy. Tuy nhiên, không nhất thiết là đứa trẻ cố tình “tắt” các kết nối với người khác. Sở dĩ nó không thể nói và cộng hưởng với mọi người là vì một mặt chúng ta chưa hiểu hết tâm trí của nó, mặt khác, nó có thể có những hoạt động và mục đích riêng, tài năng và khả năng riêng của nó). Nói cách khác, bản thân đứa trẻ không từ chối chúng ta, mà có cuộc sống của riêng nó.
Chúng tôi cố gắng tiếp cận những người mắc chứng tự kỷ, chứ không cạy một cánh cửa đóng kín và cho chúng tôi vào. Theo nghĩa đó, ý kiến của tôi là từ tiếng Việt lâu nay được sử dụng cho “tự kỷ” có vẻ tốt hơn và ít thiên vị hơn đối với người mắc bệnh. Ngoài ra, chúng tôi không sử dụng nhiều văn học Trung Quốc hoặc Nhật Bản, vì vậy việc đặt tên theo họ ít được sử dụng.
Xin cảm ơn quý thính giả đã có những câu hỏi thật hay và thú vị.
Tiến sĩ Ho Man Yin.
–
Xin cảm ơn TS Hồ văn Hiền. Chúng tôi cũng xin cảm ơn quý thính giả đã tham gia chương trình đố vui về y học này.
Các bạn có thể xem và nghe đáp án trên voatiengviet.com
Nếu có thắc mắc về các vấn đề y tế thông thường, vui lòng gọi (202) 205-7890 hoặc gửi email đến .